Kỹ thuật nuôi ba ba
ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA BA BA
Hiểu biết đặc điểm sinh học của ba ba là vấn đề cần thiết để giải quyết về kỹ thuật nuôi ba ba. Dưới đây là những đặc điểm chủ yếu mà người nuôi ba ba cần biết
1. Cách phân biệt nhanh các loài ba ba
Ba ba là động vật thuộc lớp bò sát, bộ rùa, họ ba ba Tryonychidae. Trong họ ba ba có nhiều loài. Các loài thường gặp trên thị trường ba ba ở nước ta có ba ba hoa, ba ba gai, lẹp suối và cua đinh.
Ba ba hoa còn gọi là ba ba trơn, phân bố tự nhiên chủ yếu ở các vùng nước ngọt thuộc đồng bằng sông Hồng.
Ba ba gai phân bố tự nhiên chủ yếu ở sông, suối, đầm hồ, miền núi phía Bắc.
Lẹp suối, còn gọi là ba ba suối, thấy ở các suối nhỏ miền núi phía Bắc, số lượng ít hơn ba ba gai, cỡ nhỏ hơn hai loài ba ba trên.
Cua đinh, phân bố tự nhiên ở vùng Tây Nguyên, Đông và Tây Nam bộ, dân các tỉnh phía Bắc gọi là ba ba Nam bộ, ba ba miền Nam để phân biệt với các loài ba ba ở phía Bắc.
Về tên khoa học của các loài ba ba trên, một số tài liệu phân loại đã ghi: Ba ba hoa là Trionyx sinensis, ba ba gai là Tryonyx steinachderi, ba ba Nam bộ là Trionyx cartilagineus. Chúng tôi chưa có điều kiện đi sâu về việc xác định tên khoa học cho ba ba và cách phân loại chi tiết 4 loài ba ba trên. Dưới đây chỉ giới thiệu cách phân biệt nhanh nhất, giúp cho những người nuôi ba ba và người mua ba ba khỏi nhầm lẫn.
Cách phân biệt nhanh nhất là dựa vào màu da bụng và hoa vân trên bụng.
Da bụng ba ba hoa lúc nhỏ màu đỏ, khi lớn màu đỏ nhạt dần, khi đạt cỡ 2 kg trở lên gần như màu trắng. Trên nền da bụng điểm khoảng trên dưới 10 chấm đen to và đậm, vị trí từng chấm tương đối cố định, các chấm đen này loang to nhưng nhạt dần khi ba ba lớn đần, khi đạt cỡ trên 2 kg phải quan sát kỹ mới thấy rõ.
Da bụng ba ba gai màu xám trắng, trên điểm rất nhiều chấm đen nhỏ, làm da bụng có màu xám đen lúc nhỏ và xám trắng lúc lớn.
Ba ba suối da bụng màu vàng bóng, không có chấm đen.
Ba ba Nam bộ da bụng màu trắng, không có chấm đen.
Ngoài da bụng, có thể căn cứ vào các nốt sần trên lưng, trên diềm cổ, và trên cổ của ba ba để phân biệt chúng.
2. Tập tính sinh sống của ba ba:
Ba ba có một số tập tính sinh sống đặc biệt:
- Tuy là động vật sống hoang dã, nhưng rất dễ nuôi trong ao, bể nhỏ.
- Sống dưới nước là chính, nhưng có thể sống trên cạn và có lúc rất cần sống trên cạn. Ba ba thở bằng phổi là chính nên thỉnh thoảng phải nhô lên mặt nước để hít thở không khí. Mùa đông lạnh, cường độ hô hấp nhỏ, ba ba có thể rút trong bùn ở đáy ao, dựa vào cơ quan hô hấp phụ trong cổ họng để thở, cơ quan hô hấp phụ tựa mang cá, ba ba lấy oxy trong nước và thải CO2 trong máu vào nước qua cơ quan này. Ba ba lên khỏi mặt nước khi có nhu cầu di chuyển, đẻ trứng, phơi lưng...
- Vừa biết bơi, vừa biết bò, leo, biết vùi mình nằm trong bùn cát, đặc biệt có thể đào hang trú ẩn, đào khoét bờ ao chui sang ao bên cạnh.
Ba ba nhút nhát lại vừa hung dữ. Ba ba thích sống nơi yên tĩnh, ít tiếng ồn, kín đáo. Khi thấy có tiếng động mạnh, có bóng người hay bóng súc vật đến gần, chúng lập tức nhảy xuống nước lẩn trốn. Tính hung dữ của ba ba thể hiện ở chỗ hay cắn nhau rất đau, con lớn hay cắn và ăn tranh mồi của con bé, bị đói lâu có thể ăn thịt con bé. Khi có người hoặc động vật muốn bắt nó, nó có phản ứng tự vệ rất nhanh là vươn cổ dài ra cắn.
3. Tính ăn:
Ba ba thuộc loài ăn thức ăn động vật.
Ngay sau khi nở một vài giờ, ba ba đã biết tìm mồi ăn. Trong tự nhiên thức ăn chính trong mấy ngày mới nở là động vật phù du (thủy trần), giun nước (trùng chỉ) và giun quế loại nhỏ. Khi lớn ba ba ăn cá, tép, cua, ốc, giun đất, trai, hến... Trong điều kiện nuôi dưỡng, có thể cho ba ba ăn thêm thịt của nhiều loại động vật rẻ tiền khác, đồng thời có thể huấn luyện cho ba ba biết ăn thức ăn chế biến ( thức ăn công nghiệp) ngay từ giai đoạn còn nhỏ.
4. Sinh trưởng:
Ba ba hoa lúc mới nở có quy cỡ từ 3-6g/ con Ba ba gai và ba ba Nam bộ cỡ lớn hơn. Tốc độ lớn của ba ba phụ thuộc vào loài, kỹ thuật nuôi và điều kiện môi trường nuôi. Từ cỡ giống 100-200g/con, sau khi nuôi 6-8 tháng, ba ba hoa có thể đạt cỡ 0,5-0,8kg/con đối với miền Bắc từ 0,8 – 1kg/ con đối với miền Nam. Ba ba gai nuôi có tốc độ lớn nhanh gấp đôi hoặc trên gấp đôi ba ba hoa.
5. Sinh sản:
Ba ba hoa cỡ 0,5kg mới bắt đầu đẻ trứng lần đầu, tuổi tương ứng là 2 năm. Ba ba gai cỡ 2 kg trở lên mới bắt đầu đẻ trứng. Trứng ba ba thụ tinh trong.
Ba ba sống dưới nước, nhưng đẻ trứng trên cạn. Đến mùa đẻ, thường là vào mùa mưa, ba ba ban đêm bò lên bờ sông, bờ ao, hồ tìm chỗ kín đáo, có đất cát ẩm và tơi xốp bới tổ đẻ trứng. đẻ xong chúng dùng 2 chân trước cào đất lắp kín trứng, dùng bụng xoa nhẵn mặt đất ổ trứng rồi xuống nước sinh sống, không biết ấp trứng. trứng nằm trong ổ, trải qua mưa nắng và các điều kiện không thuận lợi về dịch hại, sau 50-60 ngày nở thành ba ba con, điều kiện ấp tự nhiên này tỷ lệ nở rất thấp. Trong điều kiện nuôi, con người có thể tạo chỗ cho ba ba đẻ thuận lợi hơn và có nhiều phương pháp ấp trứng đảm bảo tỷ lệ nở cao trên dưới 90%.
Trứng ba ba phần lớn hình tròn như hòn bi, màu trắng.
Ba ba càng lớn đẻ trứng càng to và càng nhiều.
Ba ba hoa cỡ khoảng 500g đẻ 1 lứa từ 4-6 trứng, đường kính trứng từ 17-19mm, trọng lượng 3-4g/quả. Ba ba hoa cỡ 1-1,5kg mỗi lứa đẻ từ 8-15 trứng, đường kính trứng 20-23mm, trọng lượng 4-7g ba ba cỡ 2-3kg có thể đẻ 20-30 trứng một lứa. Trứng ba ba gai lớn hơn trứng ba ba hoa. Ba ba Nam bộ cỡ 4-4,5kg/con, đẻ trứng nặng từ 20-25g/quả.
Ba ba có thể đẻ từ 2-5 lứa trong 1 năm, ba ba cái càng lớn, chế độ nuôi vỗ cho ăn càng tốt đẻ càng nhiều lứa, mỗi lứa cách nhau từ 25-30 ngày.
Tại các tỉnh phía Bắc, một số gia đình có sổ ghi chép theo dõi, bình quân cả đàn ba ba nuôi trong ao 1 năm đẻ 3, 5 lứa, số trứng ba ba đẻ thu được từ 40-55 quả trên 1kg ba ba cái cỡ từ 1-1,5kg.
6. Tính thời vụ rất rõ rệt giữa 2 vùng:
Ba ba hoa nuôi ở các tỉnh phía Bắc: một số con đẻ sớm vào cuối tháng 3 hoặc đầu tháng 4 ( dương lịch ), đẻ rộ trong các tháng 5,6,7 sau đó đẻ rải rác tiếp các tháng 8,9,10, cuối tháng 10 là kết thúc vụ đẻ.
Thời vụ nuôi bắt đầu vào cuối tháng 3 đến đầu tháng 12. Từ giữa tháng 12 đến hết tháng 2 thời tiết lạnh nhiệt độ nước dưới 180C, có khi dưới 150C ba ba không ăn và không lớn. Các tháng ba ba sinh trưởng nhanh nhất là từ tháng 5 đến tháng 10.
Ba ba hoa nuôi ở các tỉnh miền Trung và phía Nam: hầu như ăn mồi quanh năm, sinh trưởng liên tục và đẻ quanh năm, do khí hậu ấm áp quanh năm không có mùa đông lạnh như các tỉnh phía Bắc. Trong vùng này, nhiệt độ nước các ao nuôi ba ba trong năm dao động chủ yếu trong phạm vi từ 24-32oC, ít khi dưới 22oC hoặc trên 33oC. Những nơi có điều kiện cấp nước tốt có thể khống chế được nhiệt độ nước trong phạm vi thích hợp nhất từ 26-30oC.
KỸ THUẬT LÀM AO NUÔI BA BA
Nuôi ba ba hiện nay chủ yếu là hình thức nuôi trong từng gia đình, mỗi gia đình có từ một đến vài ao nuôi, có gia đình chuyên nuôi ba ba thịt, có gia đình chuyên sản xuất ba ba giống, có gia đình chỉ làm một công đoạn ương ba ba giống. Số gia đình, cơ sở nuôi ba ba có hàng chục ao các loại, xây dựng thành trại nuôi ba ba hiện không nhiều.
Muốn nuôi ba ba có kết quả tốt, điều quan trọng đầu tiên là phải xây dựng được ao nuôi phù hợp với điều kiện sống của ba ba và quản lý được đàn ba ba nuôi.
Xây dựng ao nuôi ba ba cần phải đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật chủ yếu sau:
1. Điều kiện về nguồn nước và chất nước:
a) Có nguồn nước cấp bảo đảm đủ nước nuôi quanh năm, có thể chủ động tháo nước và thay nước khi cần. Ao có nguồn nước cấp dồi dào, có điều kiện thay nước luôn có thể áp dụng kỹ thuật nuôi thả mật độ dày, cho ăn thoã mãn để đạt tốc độ lớn và năng suất cao. Điều kiện cấp nước không chủ động, thay nước khó khăn chỉ nuôi được mật độ thưa, năng suất thấp hoặc vừa phải.
Cần nhất là trong mùa nắng nóng, trong trường hợp nắng kéo dài, ao nuôi ba ba vẫn giữ được mức nước nuôi ở độ sâu thích hợp. Thuận tiện nhất là sử dụng nguồn nước tự chảy, nguồn nước từ sông, suối, kênh, mương, đầm hồ lớn. Nuôi quy mô nhỏ, nhu cầu lượng nước cấp không nhiều, có thể sử dụng nước giếng khoan, giếng xây. Ngoài ra một số nơi có điều kiện có thể sử dụng mạch ngầm hoặc nguồn nước ấm để nuôi trong mùa đông (đối với vùng núi và miền Bắc).
b) Nguồn nước cấp cần sạch, không bị ô nhiễm bởi nước thải hoặc thuốc trừ sâu, pH từ 6,5 - 8, hàm lượng oxy cao 4mg/l trở lên. Nơi không có điều kiện phân tích nước, có thể lấy nước sinh hoạt tắm giặt bình thường để làm tiêu chuẩn. Đối với vùng gần biển, nơi có ảnh hưởng của thuỷ triều và nước lợ, độ mặn của nguồn nước cấp cho ao nuôi ba ba không quá 3-4%o.
2. Các yêu cầu kỹ thuật về xây dựng ao nuôi:
a) Nên xây dựng ao nuôi ở nơi yên tĩnh, kín đáo, không bị cớm rợp, dễ thoát nước, không bị úng ngập, có nguồn nước cấp độc lập để bảo đảm cấp nước sạch.
b) Diện tích ao rộng hẹp vừa phải. Ao rộng nuôi dễ lớn nhanh, nhưng khó quản lý, đầu tư lớn mới có năng suất sản lượng cao. Ao hẹp dễ quản lý, nhưng nuôi chậm lớn hơn ao rộng. Diện tích thích hợp với từng loại ao các nơi ta lựa chọn như sau:
- Ao nuôi ba ba bố mẹ từ 100-200m2/ao, lớn nhất không nên quá 400m2.
- Ao nuôi ba ba thịt từ 100-200m2/ao, lớn nhất không quá 1.000m2.
- Bể ương ba ba giống từ mới nở đến 1 tháng tuổi: 1-10m2/bể. Nên xây nhiều bể nhỏ ương riêng rẽ ba ba nở cùng thời gian 1-2 ngày vào 1 bể.
- Ao, bể ương ba ba giống từ 2-3 tháng tuổi: 10-50m2.
- Ao, bể ương ba ba giống lớn (4-6 tháng tuổi) từ 50-150m2. Giai đoạn này ương trong ao tốt hơn ương trong bể xây.
c) Độ sâu thích hợp (tính từ đáy ao lên đỉnh bờ):
- Ao nuôi ba ba bố mẹ từ 1,5-2m, có mức nước chứa thường xuyên từ 1,2-1,5m, thời gian nắng nóng và mùa rét cho nước sâu thêm 20-30cm.
- Ao nuôi ba ba thịt từ 1,5-2m, có mức nước chứa thường xuyên 1-1,2m. Thời gian nắng nóng và mùa rét cho nước sâu thêm 20-30cm. Đáy ao nuôi ba ba thịt và ba ba bố mẹ tốt nhất vừa có chỗ nông vừa có chỗ sâu, để thích hợp với điều kiện tự nhiên của ba ba.
- Bể ương ba ba mới nở: từ 0,5-0,6m, chứa nước sâu từ 10cm (lúc đầu) đến 40cm (cuối giai đoạn ương).
- Bể ương ba ba giống cỡ 2-3 tháng tuổi từ 0,7-1m, chứa nước sâu từ 0,4-0,6m.
- Bể ương ba ba giống lớn (4-6 tháng tuổi): từ 0,8-1,2m, chứa nước sâu 0,6-0,8m. Ao ương sâu từ 1-1,5m, chứa nước sâu 0,8-1m.
- Ao quá rộng và quá sâu không thuận lợi cho công tác quản lý trong quá trình nuôi.
d) Mỗi ao có cống cấp nước và thoát nước riêng. Cống thoát nước có điều kiện nên đặt sát đáy ao để dễ tháo cạn và hút bỏ chất cặn bẩn trong ao. Cấp nước vào ao nên cho chảy ngầm, không xối mạnh trên mặt nước làm ba ba sợ hãi không có lợi cho sinh trưởng.
e) Có chỗ cho ba ba nghĩ ngơi dưới nước và trên bờ.
- Ba ba ăn no xong thường tìm chỗ nghĩ ngơi thích hợp, rất hay vùi mình xuống bùn, chỉ để hở trên bùn 2 lỗ mũi để thở. Khi yên tĩnh, nhất là vào các buổi nắng ấm, ba ba còn hay bò lên bờ hoặc trèo lên vật nổi trên mặt ao để phơi nắng (có nơi gọi là phơi lưng, tắm nắng...) cho đến khi mặt da khô hết nước dính mới xuống nước trở lại. Ba ba phơi nắng như vậy có tác dụng rất tốt, có thể tự chữa khỏi các bệnh nấm nước, bệnh lỡ loét khi vết thương còn nhẹ. Trên thực tế thì những ao nuôi không có điều kiện cho ba ba phơi nắng, ba ba rất hay bị bệnh.
- Cách tạo chỗ cho ba ba rúc nằm dưới đáy ao:
+ Vét hết bùn bẩn trong ao, để đáy trơ, sau đó đổ lớp cát non (cát mịn sạch) hoặc cát pha bùn sạch lên trên, diện tích rải cát bùn từ 20-100% diện tích đáy ao, bể, tuỳ mật độ nuôi dày hay thưa chiều dày lớp cát bùn từ 4-15cm tuỳ theo cỡ ba ba lớn nhỏ, bể ương ba ba mới nở chỉ cần lớp cát dày 3-4cm, ao nuôi ba ba bố mẹ hoặc ba ba thịt đã lớn lớp cát cần dày 10-15cm, đủ cho ba ba vùi kín mình 3-5cm. Không nên dùng cát thô (cát già), cát bẩn có lẫn nhiều mảnh cứng sắc cạnh rải đáy cho ba ba nằm vì ba ba tạo lực xoáy rất mạnh, dễ bị cọ sát mất nhớt, rách da chảy máu và từ chỗ chảy máu dễ bị nhiễm trùng sinh bệnh. Đáy đổ cát mịn dễ xử lý hơn đáy bùn mỗi khi cần tẩy dọn ao, nhưng một số người cho rằng để đáy bùn sạch nuôi ba ba bóng đẹp hơn. Cũng không nên dùng lớp bùn cát quá dày, vừa tốn cát, vừa khó xử ký khi bắt ba ba mỗi khi cần tẩy dọn ao và thay cát đáy.
+ Có nhiều cách tạo chỗ cho ba ba bò lên phơi nắng: Đơn giản nhất là thả một số vật nổi như bó tre, nứa (cả cây), cây gỗ, tấm gỗ, tấm phên...
+ Tạo lối cho ba ba bò từ ao lên bờ, có thể là một luống đất ria ao hoặc cả một vườn cây cạnh ao. Riêng ao nuôi ba ba bố mẹ không làm kiểu này.
+ Đắp ụ trong ao hoặc xây bệ nổi trên mặt ao, có cầu cho ba ba lên xuống. Cũng có thể lát nghiêng một đầu ao, bể, độ dốc vừa phải, phần ngập dưới nước là chỗ để cho ba ba ăn, phần cao trên mặt nước là chỗ cho ba ba phơi mình, diện tích phần lát từ 10-20% diện tích ao, tuỳ theo mật độ nuôi dày hay thưa.
f) Có chỗ cố định cho ba ba ăn để dễ theo dõi sức ăn của ba ba và để làm vệ sinh khu vực ăn. Đơn giản nhất là cho thức ăn vào rổ, rá, nia, mẹt, khay, buộc dây treo ngập nước từ 0,3-0,6m cho ba ba ăn, khi cần thì nhấc lên như nhấc vó. Có thể xây một bệ máng ở một góc ao, rộng 0,4 - 0,6m, ngập dưới nước 0,3-0,6m. Ao bể nhỏ và nông, đáy sạch có thể thả thức ăn trực tiếp xuống đáy ao cho ăn, nên chọn vị trí gần cửa cống tháo nước để dễ tháo hút chất cặn bẩn thức ăn thừa hàng ngày. Có thể luyện cho ba ba quen ăn ở ngay sát mép nước.
g) Các chỗ ba ba hay bò leo như đáy bể, sườn ao, bể các gốc tường xây nên xây phẳng, có điều kiện nên trát vữa nhẵn để ba ba khó leo và không bị xướt da bụng dẫn đến nhiễm trùng sinh bệnh.
h) Chống được ba ba vượt ao ra ngoài đi mất:
- Cửa cống tháo nước và cấp nước cần bịt bằng lướt sắt.
- Ao nuôi ba ba bố mẹ cần xây bờ từ đáy lên, đỉnh bờ xây cao hơn mặt nước chứa trong bể từ 0,2-0,5m (tùy bể to nhỏ). Đỉnh tường và các góc tường xây gờ chắn rộng 5-10cm (tùy bể to nhỏ) nhô về phía lòng ao.
- Ao nuôi ba ba thịt không nhất thiết phải xây bờ từ đáy lên như ao nuôi ba ba bố mẹ, nhưng cần xây tường hoặc rào chắn xung quanh. Ao nuôi trong vườn, có thể dựa vào tường xây bảo vệ chung cả khu vườn. Các ao đất rộng có thể dùng tấm tôn, tấm nhựa rào chắn xung quanh bờ.
- Bờ đất giữa 2 ao cần đắp chắc chắn, không để có lỗ rò rĩ nước, ba ba có thể đào khoét rộng chui đi mất.
i) Có chỗ thích hợp cho ba ba đẻ trứng:
- Ao chuyên nuôi ba ba bố mẹ sinh sản cần xây “nhà đẻ" hoặc “phòng đẻ” cho ba ba ở rìa ao để ba ba tập trung đẻ nhanh, không mất trứng, giảm tỷ lệ trứng hư hỏng. Nhà đẻ xây ở một phía bờ ao, có cửa thông với ao rộng 0,5-0,6m có lối dốc thoai thoải cho ba ba bò lên. Diện tích nhà đẻ từ 2-6m2, mỗi m2 cho 15-20 con vào đẻ. Nền nhà đẻ cao hơn mực nước ao 0,4-0,5m để không bị ngập nước. Dùng gạch xây xung quanh, trong đổ cát sạch , ẩm (nên dùng cát mịn, để cát ướt nhão hoặc khô rời, ba ba không đẻ), lớp cát dày 20-25cm để ba ba bới tổ đẻ trứng. Nhà đẻ cần lợp mái che mưa nắng, tạo yên tĩnh cho ba ba vào đẻ. Đáy nền nhà đẻ cần có lỗ thoát nước, không để cát bị đọng nước làm hỏng trứng.
- Các ao không làm nhà cho ba ba đẻ, ba ba phải tự tìm chỗ thích hợp xung quanh bờ ao để đẻ trứng, trứng dễ bị thất lạc và hư hỏng nhiều.
KỸ THUẬT SẢN XUẤT BA BA GIỐNG
Từng gia đình có thể tự sản xuất ba ba giống để nuôi hoặc để kinh doanh. Những năm vừa qua đã có khoảng 10-15% số hộ gia đình nuôi ba ba chuyên sản xuất ba ba giống để bán, có người bán loại từ mới nở đến 1 tháng tuổi là chính, có người mua loại mới nở về ương thành con giống cỡ 15-20g hoặc từ 50-150g để bán kiếm lời, có người mua giống nhỏ về ương thành giống lớn hoặc mua giống về nuôi thành ba ba thịt. Từ năm 1996 trở về trước, giống ba ba khá đắt nhưng vẫn không đủ cung cấp cho người nuôi. Sang năm 1997, giá ba ba giống giảm hơn các năm trước, một phần do ảnh hưởng của giá ba ba thịt giảm, một phần do nhiều người sản xuất, lượng ba ba giống trên thị trường nhiều hơn các năm trước, đồng thời cũng bị ảnh hưởng ít nhiều của ba ba giống nhập nội thấp
Những năm tới muốn phát triển sản xuất ba ba giống có lãi nhiều cần đặc biệt lưu ý áp dụng tiến bộ kỹ thuật để tăng năng suất, hạ giá thành sản xuất ba ba giống.
Sản xuất ba ba giống gồm 3 khâu kỹ thuật chủ yếu: nuôi vỗ ba ba bố mẹ sinh sản, thu trứng và ấp trứng, ương nuôi ba ba giống.
Dưới đây chúng tôi xin lần lượt giới thiệu những tiến bộ kỹ thuật đã được tổng kết, nên mở rộng việc áp dụng
1. Nuôi vỗ ba ba bố mẹ (nuôi ba ba sinh sản, nuôi ba ba đẻ trứng)
Chỉ tiêu chính đánh giá trình độ kỹ thuật của khâu này là năng suất đẻ trứng và tỷ lệ trứng thụ tinh cao. Năng suất đẻ trứng còn nhiều người mới đạt mức trên dưới 20 trứng trên 1kg ba ba cái trong 1 năm, trong lúc những người nuôi có kỹ thuật tốt đã đạt 45-50 trứng. Tỷ lệ trứng thụ tinh, nhiều người mới đạt mức trên dưới50% số trứng ba ba đẻ ra và thu được, trong lúc người có kỹ thuật tốt đạt trên dưới 80% vào đầu vụ và trên 90% vào chính vụ, có những người nuôi ít, đạt 95-100%. Số người chưa đạt các mức trung bình trên cũng còn khá nhiều.
Muốn đạt các chỉ tiêu cao cần thực hiện tốt các vấn đề kỹ thuật sau:
a) Xây dựng ao nuôi phù hợp với các yêu cầu sinh sản của ba ba.
b) Làm tốt công tác chuẩn bị ao nuôi. Ao, bể mới xây cần ngâm rữa nhiều lần, thử nước đảm bảo độ pH thích hợp (từ 7-8) mới thả ba ba vào. Ao nuôi sau một vụ, trước khi nuôi vụ mới cần tẩy dọn sạch để diệt mầm bệnh. Khi thấy cần thiết, phải thay lớp bùn cát đã bị thối bẩn nặng.
c) Nuôi đúng thời vụ. Các tỉnh phía Bắc phải bắt đầu nuôi vỗ từ tháng 8, tháng 9 để đến khi bắt đầu rét, ba ba bố mẹ đã béo khoẻ, sang Xuân chuyển hoá tuyến sinh dục nhanh, đẻ sớm. Sau khi đẻ xong lứa thứ nhất, tiếp tục nuôi vỗ để ba ba đẻ các lứa thứ 2, 3, 4...
Các tỉnh phía Nam có thể nuôi vỗ cho đẻ quanh năm, nhưng nên nuôi vỗ sớm để ba ba đẻ tập trung các tháng từ tháng 1 đến tháng 2, tránh cho ba ba đẻ vào các tháng có nhiệt độ cao.
d) Chọn ba ba bố mẹ có các tiêu chuẩn tốt về hình dạng, sức khoẻ và qui cỡ. Không sử dụng ba ba đã có bệnh. Cỡ chọn nuôi nên từ 1kg trở lên với ba ba hoa, 2kg trở lên với ba ba gai. Trong phạm vi 4kg trở lại, cỡ nuôi càng lớn chất lượng trứng càng tốt, ba ba con nở ra càng khoẻ và mau lớn. Ba ba đực cái thả chung một ao, nhưng phải đồng cỡ, tránh thả lẫn một số con lớn gây uy hiếp đối với những con nhỏ. Số lượng nuôi 1 ao cần thả đủ 1 lần, không thả rải rác.
e) Phối ghép tỷ lệ đực/cái thích hợp. Hiện nay nhiều người cho rằng tỷ lệ thích hợp nhất là 1/2,5-3 (một con đực ghép với 2,5 đến 3 con cái). Tuy nhiên, có một số người nuôi ghép tỷ lệ 1/4 đến 1/5 vẫn đạt kết quả tỷ lệ trứng thụ tinh cao. Thả nhiều ba ba đực có hại vì chúng hay cắn nhau sinh bệnh, hay quấy nhiễu ba ba cái làm ba ba cái sinh sản không bình thường, lại vừa tốn thức ăn.
f) Lựa chọn mật độ nuôi thích hợp. Những năm qua đã có người nuôi mật độ cao tới 2-3kg/m2, nhưng trong điều kiện nuôi bình thường, mật độ nuôi phổ biến và thích hợp chỉ nên từ 0,5-1kg/m2 hoặc 0,5-1 con/m2. Nuôi mật độ dày hơn, điều kiện cho ăn và thay nước không đầy đủ, ba ba đẻ kém , dễ sinh bệnh.
g) Chăm sóc và quản lý tốt.
2. Thu trứng và ấp trứng ba ba:
Trứng ba ba ấp nở tự nhiên tỷ lệ nở rất thấp, thời gian ấp nở lâu.
Muốn ấp nở nhanh, tỷ lệ nở cao cần phải có kỹ thuật.
Hiện nay, những người sản xuất giỏi có thể đạt tỷ lệ nở trên dưới 90%, có người đạt 100% so với số trứng thụ tinh đem ấp và rút ngắn được thời gian ấp nở từ 5-10 ngày so với bình thường.
Muốn ấp nở tốt, trước hết phải biết kỹ thuật thu trứng. Nên theo dõi ba ba đẻ, thu trứng vào các buổi sáng, lúc ba ba đẻ rộ thu hàng ngày, lúc ba ba đẻ thưa 3-5 ngày thu 1 lần, không nên để ba ba đẻ sau 15-20 ngày mới thu trứng đem ấp. Các quả trứng nhỏ, hình dạng không bình thường và trứng không thụ tinh cần loại ngay, chỉ giữ trứng thụ tinh để ấp. Trứng thụ tinh phần lớn tròn, vỏ trứng có màu sắc bình thường, phần trên màu trắng là túi chứa hơi để phôi thở, phần dưới màu phớt hồng là phần phôi và noãn hoàn (lòng đỏ trứng). Trứng hỏng (không thụ tinh) màu sắc không bình thường, hay có vết đốm loang lỗ , không phân biệt rõ 2 phần như trứng thụ tinh. Cần ghi chép các số liệu từng ao nuôi về ngày đẻ, ngày thu trứng ấp, số lượng trứng thu được, số lượng trứng thụ tinh... để giúp cho việc xử lý kỹ thuật ấp và dự đoán kết quả nuôi vỗ, tỷ lệ nở...
Cách ấp trứng: Nên ấp trong nhà hoặc có phòng ấp riêng để tránh nhiệt độ thay đổi bất thường và bảo vệ được trứng. Dụng cụ ấp trứng thường dùng khay, chậu bằng nhôm, sắt tráng men hoặc bằng nhựa. Diện tích khay, chậu to nhỏ tuỳ theo số lượng trứng cần ấp. Một chậu rửa mặt thông thường có thể ấp trên dưới 100 trứng, một chậu nhôm to có thể ấp trên dưới 300 trứng.
Khay chậu ấp có chiều cao trên 10cm, trong đổ cát sạch mịn, ẩm và tơi xốp, lớp cát dày 7-8cm (cách miệng khay, chậu 3-4cm), đáy khay chậu có lỗ thoát nước để tránh cát ấp bị đọng nước làm hỏng trứng ấp. Nhặt trứng thụ tinh rải đều trên mặt cát, quả cách quả 2cm, đầu có túi hơi để phía trên (chú ý không đặt ngược, không đặt nghiêng), khi đủ 1 lớp trứng thì lấy cát bột rải lên trên cho kín, lớp cát cao hơn trứng 2-3cm. Để khay trứng vào nơi yên tĩnh để ấp. Nếu có điều kiện xác định, nên khống chế hàm lượng nước trong cát ẩm từ 7-10% (cát ẩm cho lên tay bóp vẫn rời không vón cục) và độ ẩm không khí trong phòng ấp khoảng 85%. Ngoài ấp phổ biến bằng khay, chậu, các cơ sở sản xuất lớn hàng ngàn, hàng chục ngàn trứng có thể xây phòng ấp, bể ấp chuyên hoặc dùng máy ấp trứng nhập từ nước ngoài.
Quản lý việc ấp trứng là nhiệm vụ rất quan trọng trong thời kỳ ấp từ 50-55 ngày. Cần nhất là giữ cho nhiệt độ và độ ẩm cát ấp được ổn định. Cách 1-2 ngày lớp cát trên mặt bốc hơi bị khô, cần phun nước cho ẩm trở lại bình thường, nước phun cần từ từ, đặc biệt tránh dội nước làm cho nhiệt độ cát ấp bị thay đổi đột ngột, phôi trứng sẽ chết. Trong những ngày mưa lớn hoặc ban đêm nhiệt độ không khí xuống thấp dưới 25oC, cần có biện pháp tăng nhiệt độ phòng ấp (nơi có điện có thể thắp bóng điện 100-200W để toả nhiệt, cần che đèn cho nhiệt độ toả đều, nếu không che có chỗ sẽ bị quá nóng, trứng sẽ bị chết). Những ngày quá nóng, phòng ấp nên để thoáng gió hoặc làm mát bằng quạt... Nhiệt độ ấp thích hợp nhất là ổn định từ 30-32oC, ở nhiệt độ này thời gian ấp chỉ 45-50 ngày nhiệt độ ấp cao hơn 1-2 độ thời gian ấp có thể rút ngắn 4-5 ngày nhưng để không an toàn. Dưới 20oC và trên 35oC phôi trứng bị chết, ấp không nở được. Khi thấy trứng sắp nở (mổ mỏ, có chỗ nứt vỏ) cần đặt khay nước sạch hoặc bát nước vào giữa khay, chậu ấp trứng, ba ba con nở ra biết tự bò vào nước cũng có thể kê khay chậu ấp trứng trên 1 chậu to hoặc bể con, trong chậu hoặc bể chứa nước, ba ba con nở ra tự nhảy vào nước. Nếu không để sẵn nước, ban đêm chậm biết, ba ba con bị khô da sẽ chết.
Quá trình quản lý ấp trứng, có thể bới cát kiểm tra trứng, nhưng không được đảo trứng, đồng thời cần có các biện pháp bảo vệ không cho kiến, chuột, rắn, mèo, gà lọt vào ăn hại trứng và ba ba con.
Nhặt ba ba mới nở vào chậu nước sạch, chọn những con khoẻ mạnh, đã “ rụng rốn” để đưa vào bể ương.
3. Ương nuôi Ba ba giống:
Để đảm bảo ương từ ba ba mới nở thành ba ba giống có tỷ lệ sống cao, nên chia thành 3 giai đoạn ương. Dưới đây chủ yếu giới thiệu kỹ thuật ương ba ba hoa.
Giai đoạn 1: Ương từ lúc mới nở cỡ 4-6g thành cỡ 15-25g. Thời gian ương nhanh từ 25-30 ngày. Chăm sóc kém thời gian có thể kéo dài gấp đôi. Ba ba nở đầu vụ và giữa vụ, đúng mùa sinh trưởng ương lớn nhanh hơn ba ba nở cuối vụ. Ba ba mới nở do quy cỡ còn nhỏ, sức yếu, cơ quan tiêu hoá chưa hoàn chỉnh nên cần được chăm sóc tỉ mỉ trong các bể nhỏ có diện tích từ 1m2 đến 10m2. Mức nước trong bể ương từ 10-15cm mấy ngày đầu tăng dần đến 40cm vào cuối tháng. Không nên để nước quá sâu vì ba ba con luôn phải ngoi lên mặt nước thở, tốn năng lượng, ảnh hưởng đến sức khoẻ. Mặt bể có thể thả bèo tây non, sạch cho ba ba con nằm thở giáp mặt nước. Mật độ ương trung bình 50 con/m2, có thể ương dày 100-150 con/m2 nhưng sau 10-15 ngày phải san thưa, cho ăn đầy đủ và thay nước luôn. Cho ăn trùn chỉ (giun đỏ), giun đất, trùn quế, thả vào khay đưa xuống bể cho ba ba ăn vào sáng sớm hoặc chiều tối. Quản lý chăm sóc tốt, tỷ lệ sống đạt 90-100%.
Giai đoạn 2: Ương từ cỡ giống 15-25g thành cỡ giống 50-80g, thời gian ương nuôi cần 2-3 tháng với ba ba nở đầu vụ. Giai đoạn này tốt nhất vẫn nên ương trong bể xây cỡ 20-30m2 hoặc trong ao nhỏ cỡ 50-100m2. Mật độ ương trung bình 25-30 con/m2. Cho ăn no đủ bằng giun đất, cá mè luộc chín, gỡ ra thả xuống bể cho ba ba vào sáng, chiều. Quản lý chăm sóc tốt có thể đạt tỷ lệ sống 90-100%. Ương nuôi kém, sau 3 tháng chưa đạt quy cỡ nêu trên.
Giai đoạn 3: Ương cỡ giống nhỏ 50-80g thành cỡ giống lớn 100-150g, con to trên 200g. Thời gian ương cần 2-3 tháng, nếu thả qua mùa đông thì mất 5-6 tháng. Giai đoạn này nuôi trong ao đất lớn nhanh hơn trong bể xây. Diện tích bể ương trên dưới 50m2, diện tích ao ương 100-150m2. Mật độ ương trung bình 7-10 con/m2, cao nhất 15 con /m2. Cho ăn no đủ bằng cá mè luộc, gỡ cho ăn, cũng có thể cá băm nhỏ cho ăn vào sáng, chiều. Quản lý chăm sóc tốt, tỷ lệ sống có thể đạt 90-100%.
Cần định kỳ 1 tháng kiểm tra 1 lần để phân cỡ, tách con to con nhỏ nuôi riêng ao. Quá trình nuôi cần đảm bảo ao bể ương có nhiệt độ thích hợp từ 25-33oC.
Hiểu biết đặc điểm sinh học của ba ba là vấn đề cần thiết để giải quyết về kỹ thuật nuôi ba ba. Dưới đây là những đặc điểm chủ yếu mà người nuôi ba ba cần biết
1. Cách phân biệt nhanh các loài ba ba
Ba ba là động vật thuộc lớp bò sát, bộ rùa, họ ba ba Tryonychidae. Trong họ ba ba có nhiều loài. Các loài thường gặp trên thị trường ba ba ở nước ta có ba ba hoa, ba ba gai, lẹp suối và cua đinh.
Ba ba hoa còn gọi là ba ba trơn, phân bố tự nhiên chủ yếu ở các vùng nước ngọt thuộc đồng bằng sông Hồng.
Ba ba gai phân bố tự nhiên chủ yếu ở sông, suối, đầm hồ, miền núi phía Bắc.
Lẹp suối, còn gọi là ba ba suối, thấy ở các suối nhỏ miền núi phía Bắc, số lượng ít hơn ba ba gai, cỡ nhỏ hơn hai loài ba ba trên.
Cua đinh, phân bố tự nhiên ở vùng Tây Nguyên, Đông và Tây Nam bộ, dân các tỉnh phía Bắc gọi là ba ba Nam bộ, ba ba miền Nam để phân biệt với các loài ba ba ở phía Bắc.
Về tên khoa học của các loài ba ba trên, một số tài liệu phân loại đã ghi: Ba ba hoa là Trionyx sinensis, ba ba gai là Tryonyx steinachderi, ba ba Nam bộ là Trionyx cartilagineus. Chúng tôi chưa có điều kiện đi sâu về việc xác định tên khoa học cho ba ba và cách phân loại chi tiết 4 loài ba ba trên. Dưới đây chỉ giới thiệu cách phân biệt nhanh nhất, giúp cho những người nuôi ba ba và người mua ba ba khỏi nhầm lẫn.
Cách phân biệt nhanh nhất là dựa vào màu da bụng và hoa vân trên bụng.
Da bụng ba ba hoa lúc nhỏ màu đỏ, khi lớn màu đỏ nhạt dần, khi đạt cỡ 2 kg trở lên gần như màu trắng. Trên nền da bụng điểm khoảng trên dưới 10 chấm đen to và đậm, vị trí từng chấm tương đối cố định, các chấm đen này loang to nhưng nhạt dần khi ba ba lớn đần, khi đạt cỡ trên 2 kg phải quan sát kỹ mới thấy rõ.
Da bụng ba ba gai màu xám trắng, trên điểm rất nhiều chấm đen nhỏ, làm da bụng có màu xám đen lúc nhỏ và xám trắng lúc lớn.
Ba ba suối da bụng màu vàng bóng, không có chấm đen.
Ba ba Nam bộ da bụng màu trắng, không có chấm đen.
Ngoài da bụng, có thể căn cứ vào các nốt sần trên lưng, trên diềm cổ, và trên cổ của ba ba để phân biệt chúng.
2. Tập tính sinh sống của ba ba:
Ba ba có một số tập tính sinh sống đặc biệt:
- Tuy là động vật sống hoang dã, nhưng rất dễ nuôi trong ao, bể nhỏ.
- Sống dưới nước là chính, nhưng có thể sống trên cạn và có lúc rất cần sống trên cạn. Ba ba thở bằng phổi là chính nên thỉnh thoảng phải nhô lên mặt nước để hít thở không khí. Mùa đông lạnh, cường độ hô hấp nhỏ, ba ba có thể rút trong bùn ở đáy ao, dựa vào cơ quan hô hấp phụ trong cổ họng để thở, cơ quan hô hấp phụ tựa mang cá, ba ba lấy oxy trong nước và thải CO2 trong máu vào nước qua cơ quan này. Ba ba lên khỏi mặt nước khi có nhu cầu di chuyển, đẻ trứng, phơi lưng...
- Vừa biết bơi, vừa biết bò, leo, biết vùi mình nằm trong bùn cát, đặc biệt có thể đào hang trú ẩn, đào khoét bờ ao chui sang ao bên cạnh.
Ba ba nhút nhát lại vừa hung dữ. Ba ba thích sống nơi yên tĩnh, ít tiếng ồn, kín đáo. Khi thấy có tiếng động mạnh, có bóng người hay bóng súc vật đến gần, chúng lập tức nhảy xuống nước lẩn trốn. Tính hung dữ của ba ba thể hiện ở chỗ hay cắn nhau rất đau, con lớn hay cắn và ăn tranh mồi của con bé, bị đói lâu có thể ăn thịt con bé. Khi có người hoặc động vật muốn bắt nó, nó có phản ứng tự vệ rất nhanh là vươn cổ dài ra cắn.
3. Tính ăn:
Ba ba thuộc loài ăn thức ăn động vật.
Ngay sau khi nở một vài giờ, ba ba đã biết tìm mồi ăn. Trong tự nhiên thức ăn chính trong mấy ngày mới nở là động vật phù du (thủy trần), giun nước (trùng chỉ) và giun quế loại nhỏ. Khi lớn ba ba ăn cá, tép, cua, ốc, giun đất, trai, hến... Trong điều kiện nuôi dưỡng, có thể cho ba ba ăn thêm thịt của nhiều loại động vật rẻ tiền khác, đồng thời có thể huấn luyện cho ba ba biết ăn thức ăn chế biến ( thức ăn công nghiệp) ngay từ giai đoạn còn nhỏ.
4. Sinh trưởng:
Ba ba hoa lúc mới nở có quy cỡ từ 3-6g/ con Ba ba gai và ba ba Nam bộ cỡ lớn hơn. Tốc độ lớn của ba ba phụ thuộc vào loài, kỹ thuật nuôi và điều kiện môi trường nuôi. Từ cỡ giống 100-200g/con, sau khi nuôi 6-8 tháng, ba ba hoa có thể đạt cỡ 0,5-0,8kg/con đối với miền Bắc từ 0,8 – 1kg/ con đối với miền Nam. Ba ba gai nuôi có tốc độ lớn nhanh gấp đôi hoặc trên gấp đôi ba ba hoa.
5. Sinh sản:
Ba ba hoa cỡ 0,5kg mới bắt đầu đẻ trứng lần đầu, tuổi tương ứng là 2 năm. Ba ba gai cỡ 2 kg trở lên mới bắt đầu đẻ trứng. Trứng ba ba thụ tinh trong.
Ba ba sống dưới nước, nhưng đẻ trứng trên cạn. Đến mùa đẻ, thường là vào mùa mưa, ba ba ban đêm bò lên bờ sông, bờ ao, hồ tìm chỗ kín đáo, có đất cát ẩm và tơi xốp bới tổ đẻ trứng. đẻ xong chúng dùng 2 chân trước cào đất lắp kín trứng, dùng bụng xoa nhẵn mặt đất ổ trứng rồi xuống nước sinh sống, không biết ấp trứng. trứng nằm trong ổ, trải qua mưa nắng và các điều kiện không thuận lợi về dịch hại, sau 50-60 ngày nở thành ba ba con, điều kiện ấp tự nhiên này tỷ lệ nở rất thấp. Trong điều kiện nuôi, con người có thể tạo chỗ cho ba ba đẻ thuận lợi hơn và có nhiều phương pháp ấp trứng đảm bảo tỷ lệ nở cao trên dưới 90%.
Trứng ba ba phần lớn hình tròn như hòn bi, màu trắng.
Ba ba càng lớn đẻ trứng càng to và càng nhiều.
Ba ba hoa cỡ khoảng 500g đẻ 1 lứa từ 4-6 trứng, đường kính trứng từ 17-19mm, trọng lượng 3-4g/quả. Ba ba hoa cỡ 1-1,5kg mỗi lứa đẻ từ 8-15 trứng, đường kính trứng 20-23mm, trọng lượng 4-7g ba ba cỡ 2-3kg có thể đẻ 20-30 trứng một lứa. Trứng ba ba gai lớn hơn trứng ba ba hoa. Ba ba Nam bộ cỡ 4-4,5kg/con, đẻ trứng nặng từ 20-25g/quả.
Ba ba có thể đẻ từ 2-5 lứa trong 1 năm, ba ba cái càng lớn, chế độ nuôi vỗ cho ăn càng tốt đẻ càng nhiều lứa, mỗi lứa cách nhau từ 25-30 ngày.
Tại các tỉnh phía Bắc, một số gia đình có sổ ghi chép theo dõi, bình quân cả đàn ba ba nuôi trong ao 1 năm đẻ 3, 5 lứa, số trứng ba ba đẻ thu được từ 40-55 quả trên 1kg ba ba cái cỡ từ 1-1,5kg.
6. Tính thời vụ rất rõ rệt giữa 2 vùng:
Ba ba hoa nuôi ở các tỉnh phía Bắc: một số con đẻ sớm vào cuối tháng 3 hoặc đầu tháng 4 ( dương lịch ), đẻ rộ trong các tháng 5,6,7 sau đó đẻ rải rác tiếp các tháng 8,9,10, cuối tháng 10 là kết thúc vụ đẻ.
Thời vụ nuôi bắt đầu vào cuối tháng 3 đến đầu tháng 12. Từ giữa tháng 12 đến hết tháng 2 thời tiết lạnh nhiệt độ nước dưới 180C, có khi dưới 150C ba ba không ăn và không lớn. Các tháng ba ba sinh trưởng nhanh nhất là từ tháng 5 đến tháng 10.
Ba ba hoa nuôi ở các tỉnh miền Trung và phía Nam: hầu như ăn mồi quanh năm, sinh trưởng liên tục và đẻ quanh năm, do khí hậu ấm áp quanh năm không có mùa đông lạnh như các tỉnh phía Bắc. Trong vùng này, nhiệt độ nước các ao nuôi ba ba trong năm dao động chủ yếu trong phạm vi từ 24-32oC, ít khi dưới 22oC hoặc trên 33oC. Những nơi có điều kiện cấp nước tốt có thể khống chế được nhiệt độ nước trong phạm vi thích hợp nhất từ 26-30oC.
KỸ THUẬT LÀM AO NUÔI BA BA
Nuôi ba ba hiện nay chủ yếu là hình thức nuôi trong từng gia đình, mỗi gia đình có từ một đến vài ao nuôi, có gia đình chuyên nuôi ba ba thịt, có gia đình chuyên sản xuất ba ba giống, có gia đình chỉ làm một công đoạn ương ba ba giống. Số gia đình, cơ sở nuôi ba ba có hàng chục ao các loại, xây dựng thành trại nuôi ba ba hiện không nhiều.
Muốn nuôi ba ba có kết quả tốt, điều quan trọng đầu tiên là phải xây dựng được ao nuôi phù hợp với điều kiện sống của ba ba và quản lý được đàn ba ba nuôi.
Xây dựng ao nuôi ba ba cần phải đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật chủ yếu sau:
1. Điều kiện về nguồn nước và chất nước:
a) Có nguồn nước cấp bảo đảm đủ nước nuôi quanh năm, có thể chủ động tháo nước và thay nước khi cần. Ao có nguồn nước cấp dồi dào, có điều kiện thay nước luôn có thể áp dụng kỹ thuật nuôi thả mật độ dày, cho ăn thoã mãn để đạt tốc độ lớn và năng suất cao. Điều kiện cấp nước không chủ động, thay nước khó khăn chỉ nuôi được mật độ thưa, năng suất thấp hoặc vừa phải.
Cần nhất là trong mùa nắng nóng, trong trường hợp nắng kéo dài, ao nuôi ba ba vẫn giữ được mức nước nuôi ở độ sâu thích hợp. Thuận tiện nhất là sử dụng nguồn nước tự chảy, nguồn nước từ sông, suối, kênh, mương, đầm hồ lớn. Nuôi quy mô nhỏ, nhu cầu lượng nước cấp không nhiều, có thể sử dụng nước giếng khoan, giếng xây. Ngoài ra một số nơi có điều kiện có thể sử dụng mạch ngầm hoặc nguồn nước ấm để nuôi trong mùa đông (đối với vùng núi và miền Bắc).
b) Nguồn nước cấp cần sạch, không bị ô nhiễm bởi nước thải hoặc thuốc trừ sâu, pH từ 6,5 - 8, hàm lượng oxy cao 4mg/l trở lên. Nơi không có điều kiện phân tích nước, có thể lấy nước sinh hoạt tắm giặt bình thường để làm tiêu chuẩn. Đối với vùng gần biển, nơi có ảnh hưởng của thuỷ triều và nước lợ, độ mặn của nguồn nước cấp cho ao nuôi ba ba không quá 3-4%o.
2. Các yêu cầu kỹ thuật về xây dựng ao nuôi:
a) Nên xây dựng ao nuôi ở nơi yên tĩnh, kín đáo, không bị cớm rợp, dễ thoát nước, không bị úng ngập, có nguồn nước cấp độc lập để bảo đảm cấp nước sạch.
b) Diện tích ao rộng hẹp vừa phải. Ao rộng nuôi dễ lớn nhanh, nhưng khó quản lý, đầu tư lớn mới có năng suất sản lượng cao. Ao hẹp dễ quản lý, nhưng nuôi chậm lớn hơn ao rộng. Diện tích thích hợp với từng loại ao các nơi ta lựa chọn như sau:
- Ao nuôi ba ba bố mẹ từ 100-200m2/ao, lớn nhất không nên quá 400m2.
- Ao nuôi ba ba thịt từ 100-200m2/ao, lớn nhất không quá 1.000m2.
- Bể ương ba ba giống từ mới nở đến 1 tháng tuổi: 1-10m2/bể. Nên xây nhiều bể nhỏ ương riêng rẽ ba ba nở cùng thời gian 1-2 ngày vào 1 bể.
- Ao, bể ương ba ba giống từ 2-3 tháng tuổi: 10-50m2.
- Ao, bể ương ba ba giống lớn (4-6 tháng tuổi) từ 50-150m2. Giai đoạn này ương trong ao tốt hơn ương trong bể xây.
c) Độ sâu thích hợp (tính từ đáy ao lên đỉnh bờ):
- Ao nuôi ba ba bố mẹ từ 1,5-2m, có mức nước chứa thường xuyên từ 1,2-1,5m, thời gian nắng nóng và mùa rét cho nước sâu thêm 20-30cm.
- Ao nuôi ba ba thịt từ 1,5-2m, có mức nước chứa thường xuyên 1-1,2m. Thời gian nắng nóng và mùa rét cho nước sâu thêm 20-30cm. Đáy ao nuôi ba ba thịt và ba ba bố mẹ tốt nhất vừa có chỗ nông vừa có chỗ sâu, để thích hợp với điều kiện tự nhiên của ba ba.
- Bể ương ba ba mới nở: từ 0,5-0,6m, chứa nước sâu từ 10cm (lúc đầu) đến 40cm (cuối giai đoạn ương).
- Bể ương ba ba giống cỡ 2-3 tháng tuổi từ 0,7-1m, chứa nước sâu từ 0,4-0,6m.
- Bể ương ba ba giống lớn (4-6 tháng tuổi): từ 0,8-1,2m, chứa nước sâu 0,6-0,8m. Ao ương sâu từ 1-1,5m, chứa nước sâu 0,8-1m.
- Ao quá rộng và quá sâu không thuận lợi cho công tác quản lý trong quá trình nuôi.
d) Mỗi ao có cống cấp nước và thoát nước riêng. Cống thoát nước có điều kiện nên đặt sát đáy ao để dễ tháo cạn và hút bỏ chất cặn bẩn trong ao. Cấp nước vào ao nên cho chảy ngầm, không xối mạnh trên mặt nước làm ba ba sợ hãi không có lợi cho sinh trưởng.
e) Có chỗ cho ba ba nghĩ ngơi dưới nước và trên bờ.
- Ba ba ăn no xong thường tìm chỗ nghĩ ngơi thích hợp, rất hay vùi mình xuống bùn, chỉ để hở trên bùn 2 lỗ mũi để thở. Khi yên tĩnh, nhất là vào các buổi nắng ấm, ba ba còn hay bò lên bờ hoặc trèo lên vật nổi trên mặt ao để phơi nắng (có nơi gọi là phơi lưng, tắm nắng...) cho đến khi mặt da khô hết nước dính mới xuống nước trở lại. Ba ba phơi nắng như vậy có tác dụng rất tốt, có thể tự chữa khỏi các bệnh nấm nước, bệnh lỡ loét khi vết thương còn nhẹ. Trên thực tế thì những ao nuôi không có điều kiện cho ba ba phơi nắng, ba ba rất hay bị bệnh.
- Cách tạo chỗ cho ba ba rúc nằm dưới đáy ao:
+ Vét hết bùn bẩn trong ao, để đáy trơ, sau đó đổ lớp cát non (cát mịn sạch) hoặc cát pha bùn sạch lên trên, diện tích rải cát bùn từ 20-100% diện tích đáy ao, bể, tuỳ mật độ nuôi dày hay thưa chiều dày lớp cát bùn từ 4-15cm tuỳ theo cỡ ba ba lớn nhỏ, bể ương ba ba mới nở chỉ cần lớp cát dày 3-4cm, ao nuôi ba ba bố mẹ hoặc ba ba thịt đã lớn lớp cát cần dày 10-15cm, đủ cho ba ba vùi kín mình 3-5cm. Không nên dùng cát thô (cát già), cát bẩn có lẫn nhiều mảnh cứng sắc cạnh rải đáy cho ba ba nằm vì ba ba tạo lực xoáy rất mạnh, dễ bị cọ sát mất nhớt, rách da chảy máu và từ chỗ chảy máu dễ bị nhiễm trùng sinh bệnh. Đáy đổ cát mịn dễ xử lý hơn đáy bùn mỗi khi cần tẩy dọn ao, nhưng một số người cho rằng để đáy bùn sạch nuôi ba ba bóng đẹp hơn. Cũng không nên dùng lớp bùn cát quá dày, vừa tốn cát, vừa khó xử ký khi bắt ba ba mỗi khi cần tẩy dọn ao và thay cát đáy.
+ Có nhiều cách tạo chỗ cho ba ba bò lên phơi nắng: Đơn giản nhất là thả một số vật nổi như bó tre, nứa (cả cây), cây gỗ, tấm gỗ, tấm phên...
+ Tạo lối cho ba ba bò từ ao lên bờ, có thể là một luống đất ria ao hoặc cả một vườn cây cạnh ao. Riêng ao nuôi ba ba bố mẹ không làm kiểu này.
+ Đắp ụ trong ao hoặc xây bệ nổi trên mặt ao, có cầu cho ba ba lên xuống. Cũng có thể lát nghiêng một đầu ao, bể, độ dốc vừa phải, phần ngập dưới nước là chỗ để cho ba ba ăn, phần cao trên mặt nước là chỗ cho ba ba phơi mình, diện tích phần lát từ 10-20% diện tích ao, tuỳ theo mật độ nuôi dày hay thưa.
f) Có chỗ cố định cho ba ba ăn để dễ theo dõi sức ăn của ba ba và để làm vệ sinh khu vực ăn. Đơn giản nhất là cho thức ăn vào rổ, rá, nia, mẹt, khay, buộc dây treo ngập nước từ 0,3-0,6m cho ba ba ăn, khi cần thì nhấc lên như nhấc vó. Có thể xây một bệ máng ở một góc ao, rộng 0,4 - 0,6m, ngập dưới nước 0,3-0,6m. Ao bể nhỏ và nông, đáy sạch có thể thả thức ăn trực tiếp xuống đáy ao cho ăn, nên chọn vị trí gần cửa cống tháo nước để dễ tháo hút chất cặn bẩn thức ăn thừa hàng ngày. Có thể luyện cho ba ba quen ăn ở ngay sát mép nước.
g) Các chỗ ba ba hay bò leo như đáy bể, sườn ao, bể các gốc tường xây nên xây phẳng, có điều kiện nên trát vữa nhẵn để ba ba khó leo và không bị xướt da bụng dẫn đến nhiễm trùng sinh bệnh.
h) Chống được ba ba vượt ao ra ngoài đi mất:
- Cửa cống tháo nước và cấp nước cần bịt bằng lướt sắt.
- Ao nuôi ba ba bố mẹ cần xây bờ từ đáy lên, đỉnh bờ xây cao hơn mặt nước chứa trong bể từ 0,2-0,5m (tùy bể to nhỏ). Đỉnh tường và các góc tường xây gờ chắn rộng 5-10cm (tùy bể to nhỏ) nhô về phía lòng ao.
- Ao nuôi ba ba thịt không nhất thiết phải xây bờ từ đáy lên như ao nuôi ba ba bố mẹ, nhưng cần xây tường hoặc rào chắn xung quanh. Ao nuôi trong vườn, có thể dựa vào tường xây bảo vệ chung cả khu vườn. Các ao đất rộng có thể dùng tấm tôn, tấm nhựa rào chắn xung quanh bờ.
- Bờ đất giữa 2 ao cần đắp chắc chắn, không để có lỗ rò rĩ nước, ba ba có thể đào khoét rộng chui đi mất.
i) Có chỗ thích hợp cho ba ba đẻ trứng:
- Ao chuyên nuôi ba ba bố mẹ sinh sản cần xây “nhà đẻ" hoặc “phòng đẻ” cho ba ba ở rìa ao để ba ba tập trung đẻ nhanh, không mất trứng, giảm tỷ lệ trứng hư hỏng. Nhà đẻ xây ở một phía bờ ao, có cửa thông với ao rộng 0,5-0,6m có lối dốc thoai thoải cho ba ba bò lên. Diện tích nhà đẻ từ 2-6m2, mỗi m2 cho 15-20 con vào đẻ. Nền nhà đẻ cao hơn mực nước ao 0,4-0,5m để không bị ngập nước. Dùng gạch xây xung quanh, trong đổ cát sạch , ẩm (nên dùng cát mịn, để cát ướt nhão hoặc khô rời, ba ba không đẻ), lớp cát dày 20-25cm để ba ba bới tổ đẻ trứng. Nhà đẻ cần lợp mái che mưa nắng, tạo yên tĩnh cho ba ba vào đẻ. Đáy nền nhà đẻ cần có lỗ thoát nước, không để cát bị đọng nước làm hỏng trứng.
- Các ao không làm nhà cho ba ba đẻ, ba ba phải tự tìm chỗ thích hợp xung quanh bờ ao để đẻ trứng, trứng dễ bị thất lạc và hư hỏng nhiều.
KỸ THUẬT SẢN XUẤT BA BA GIỐNG
Từng gia đình có thể tự sản xuất ba ba giống để nuôi hoặc để kinh doanh. Những năm vừa qua đã có khoảng 10-15% số hộ gia đình nuôi ba ba chuyên sản xuất ba ba giống để bán, có người bán loại từ mới nở đến 1 tháng tuổi là chính, có người mua loại mới nở về ương thành con giống cỡ 15-20g hoặc từ 50-150g để bán kiếm lời, có người mua giống nhỏ về ương thành giống lớn hoặc mua giống về nuôi thành ba ba thịt. Từ năm 1996 trở về trước, giống ba ba khá đắt nhưng vẫn không đủ cung cấp cho người nuôi. Sang năm 1997, giá ba ba giống giảm hơn các năm trước, một phần do ảnh hưởng của giá ba ba thịt giảm, một phần do nhiều người sản xuất, lượng ba ba giống trên thị trường nhiều hơn các năm trước, đồng thời cũng bị ảnh hưởng ít nhiều của ba ba giống nhập nội thấp
Những năm tới muốn phát triển sản xuất ba ba giống có lãi nhiều cần đặc biệt lưu ý áp dụng tiến bộ kỹ thuật để tăng năng suất, hạ giá thành sản xuất ba ba giống.
Sản xuất ba ba giống gồm 3 khâu kỹ thuật chủ yếu: nuôi vỗ ba ba bố mẹ sinh sản, thu trứng và ấp trứng, ương nuôi ba ba giống.
Dưới đây chúng tôi xin lần lượt giới thiệu những tiến bộ kỹ thuật đã được tổng kết, nên mở rộng việc áp dụng
1. Nuôi vỗ ba ba bố mẹ (nuôi ba ba sinh sản, nuôi ba ba đẻ trứng)
Chỉ tiêu chính đánh giá trình độ kỹ thuật của khâu này là năng suất đẻ trứng và tỷ lệ trứng thụ tinh cao. Năng suất đẻ trứng còn nhiều người mới đạt mức trên dưới 20 trứng trên 1kg ba ba cái trong 1 năm, trong lúc những người nuôi có kỹ thuật tốt đã đạt 45-50 trứng. Tỷ lệ trứng thụ tinh, nhiều người mới đạt mức trên dưới50% số trứng ba ba đẻ ra và thu được, trong lúc người có kỹ thuật tốt đạt trên dưới 80% vào đầu vụ và trên 90% vào chính vụ, có những người nuôi ít, đạt 95-100%. Số người chưa đạt các mức trung bình trên cũng còn khá nhiều.
Muốn đạt các chỉ tiêu cao cần thực hiện tốt các vấn đề kỹ thuật sau:
a) Xây dựng ao nuôi phù hợp với các yêu cầu sinh sản của ba ba.
b) Làm tốt công tác chuẩn bị ao nuôi. Ao, bể mới xây cần ngâm rữa nhiều lần, thử nước đảm bảo độ pH thích hợp (từ 7-8) mới thả ba ba vào. Ao nuôi sau một vụ, trước khi nuôi vụ mới cần tẩy dọn sạch để diệt mầm bệnh. Khi thấy cần thiết, phải thay lớp bùn cát đã bị thối bẩn nặng.
c) Nuôi đúng thời vụ. Các tỉnh phía Bắc phải bắt đầu nuôi vỗ từ tháng 8, tháng 9 để đến khi bắt đầu rét, ba ba bố mẹ đã béo khoẻ, sang Xuân chuyển hoá tuyến sinh dục nhanh, đẻ sớm. Sau khi đẻ xong lứa thứ nhất, tiếp tục nuôi vỗ để ba ba đẻ các lứa thứ 2, 3, 4...
Các tỉnh phía Nam có thể nuôi vỗ cho đẻ quanh năm, nhưng nên nuôi vỗ sớm để ba ba đẻ tập trung các tháng từ tháng 1 đến tháng 2, tránh cho ba ba đẻ vào các tháng có nhiệt độ cao.
d) Chọn ba ba bố mẹ có các tiêu chuẩn tốt về hình dạng, sức khoẻ và qui cỡ. Không sử dụng ba ba đã có bệnh. Cỡ chọn nuôi nên từ 1kg trở lên với ba ba hoa, 2kg trở lên với ba ba gai. Trong phạm vi 4kg trở lại, cỡ nuôi càng lớn chất lượng trứng càng tốt, ba ba con nở ra càng khoẻ và mau lớn. Ba ba đực cái thả chung một ao, nhưng phải đồng cỡ, tránh thả lẫn một số con lớn gây uy hiếp đối với những con nhỏ. Số lượng nuôi 1 ao cần thả đủ 1 lần, không thả rải rác.
e) Phối ghép tỷ lệ đực/cái thích hợp. Hiện nay nhiều người cho rằng tỷ lệ thích hợp nhất là 1/2,5-3 (một con đực ghép với 2,5 đến 3 con cái). Tuy nhiên, có một số người nuôi ghép tỷ lệ 1/4 đến 1/5 vẫn đạt kết quả tỷ lệ trứng thụ tinh cao. Thả nhiều ba ba đực có hại vì chúng hay cắn nhau sinh bệnh, hay quấy nhiễu ba ba cái làm ba ba cái sinh sản không bình thường, lại vừa tốn thức ăn.
f) Lựa chọn mật độ nuôi thích hợp. Những năm qua đã có người nuôi mật độ cao tới 2-3kg/m2, nhưng trong điều kiện nuôi bình thường, mật độ nuôi phổ biến và thích hợp chỉ nên từ 0,5-1kg/m2 hoặc 0,5-1 con/m2. Nuôi mật độ dày hơn, điều kiện cho ăn và thay nước không đầy đủ, ba ba đẻ kém , dễ sinh bệnh.
g) Chăm sóc và quản lý tốt.
2. Thu trứng và ấp trứng ba ba:
Trứng ba ba ấp nở tự nhiên tỷ lệ nở rất thấp, thời gian ấp nở lâu.
Muốn ấp nở nhanh, tỷ lệ nở cao cần phải có kỹ thuật.
Hiện nay, những người sản xuất giỏi có thể đạt tỷ lệ nở trên dưới 90%, có người đạt 100% so với số trứng thụ tinh đem ấp và rút ngắn được thời gian ấp nở từ 5-10 ngày so với bình thường.
Muốn ấp nở tốt, trước hết phải biết kỹ thuật thu trứng. Nên theo dõi ba ba đẻ, thu trứng vào các buổi sáng, lúc ba ba đẻ rộ thu hàng ngày, lúc ba ba đẻ thưa 3-5 ngày thu 1 lần, không nên để ba ba đẻ sau 15-20 ngày mới thu trứng đem ấp. Các quả trứng nhỏ, hình dạng không bình thường và trứng không thụ tinh cần loại ngay, chỉ giữ trứng thụ tinh để ấp. Trứng thụ tinh phần lớn tròn, vỏ trứng có màu sắc bình thường, phần trên màu trắng là túi chứa hơi để phôi thở, phần dưới màu phớt hồng là phần phôi và noãn hoàn (lòng đỏ trứng). Trứng hỏng (không thụ tinh) màu sắc không bình thường, hay có vết đốm loang lỗ , không phân biệt rõ 2 phần như trứng thụ tinh. Cần ghi chép các số liệu từng ao nuôi về ngày đẻ, ngày thu trứng ấp, số lượng trứng thu được, số lượng trứng thụ tinh... để giúp cho việc xử lý kỹ thuật ấp và dự đoán kết quả nuôi vỗ, tỷ lệ nở...
Cách ấp trứng: Nên ấp trong nhà hoặc có phòng ấp riêng để tránh nhiệt độ thay đổi bất thường và bảo vệ được trứng. Dụng cụ ấp trứng thường dùng khay, chậu bằng nhôm, sắt tráng men hoặc bằng nhựa. Diện tích khay, chậu to nhỏ tuỳ theo số lượng trứng cần ấp. Một chậu rửa mặt thông thường có thể ấp trên dưới 100 trứng, một chậu nhôm to có thể ấp trên dưới 300 trứng.
Khay chậu ấp có chiều cao trên 10cm, trong đổ cát sạch mịn, ẩm và tơi xốp, lớp cát dày 7-8cm (cách miệng khay, chậu 3-4cm), đáy khay chậu có lỗ thoát nước để tránh cát ấp bị đọng nước làm hỏng trứng ấp. Nhặt trứng thụ tinh rải đều trên mặt cát, quả cách quả 2cm, đầu có túi hơi để phía trên (chú ý không đặt ngược, không đặt nghiêng), khi đủ 1 lớp trứng thì lấy cát bột rải lên trên cho kín, lớp cát cao hơn trứng 2-3cm. Để khay trứng vào nơi yên tĩnh để ấp. Nếu có điều kiện xác định, nên khống chế hàm lượng nước trong cát ẩm từ 7-10% (cát ẩm cho lên tay bóp vẫn rời không vón cục) và độ ẩm không khí trong phòng ấp khoảng 85%. Ngoài ấp phổ biến bằng khay, chậu, các cơ sở sản xuất lớn hàng ngàn, hàng chục ngàn trứng có thể xây phòng ấp, bể ấp chuyên hoặc dùng máy ấp trứng nhập từ nước ngoài.
Quản lý việc ấp trứng là nhiệm vụ rất quan trọng trong thời kỳ ấp từ 50-55 ngày. Cần nhất là giữ cho nhiệt độ và độ ẩm cát ấp được ổn định. Cách 1-2 ngày lớp cát trên mặt bốc hơi bị khô, cần phun nước cho ẩm trở lại bình thường, nước phun cần từ từ, đặc biệt tránh dội nước làm cho nhiệt độ cát ấp bị thay đổi đột ngột, phôi trứng sẽ chết. Trong những ngày mưa lớn hoặc ban đêm nhiệt độ không khí xuống thấp dưới 25oC, cần có biện pháp tăng nhiệt độ phòng ấp (nơi có điện có thể thắp bóng điện 100-200W để toả nhiệt, cần che đèn cho nhiệt độ toả đều, nếu không che có chỗ sẽ bị quá nóng, trứng sẽ bị chết). Những ngày quá nóng, phòng ấp nên để thoáng gió hoặc làm mát bằng quạt... Nhiệt độ ấp thích hợp nhất là ổn định từ 30-32oC, ở nhiệt độ này thời gian ấp chỉ 45-50 ngày nhiệt độ ấp cao hơn 1-2 độ thời gian ấp có thể rút ngắn 4-5 ngày nhưng để không an toàn. Dưới 20oC và trên 35oC phôi trứng bị chết, ấp không nở được. Khi thấy trứng sắp nở (mổ mỏ, có chỗ nứt vỏ) cần đặt khay nước sạch hoặc bát nước vào giữa khay, chậu ấp trứng, ba ba con nở ra biết tự bò vào nước cũng có thể kê khay chậu ấp trứng trên 1 chậu to hoặc bể con, trong chậu hoặc bể chứa nước, ba ba con nở ra tự nhảy vào nước. Nếu không để sẵn nước, ban đêm chậm biết, ba ba con bị khô da sẽ chết.
Quá trình quản lý ấp trứng, có thể bới cát kiểm tra trứng, nhưng không được đảo trứng, đồng thời cần có các biện pháp bảo vệ không cho kiến, chuột, rắn, mèo, gà lọt vào ăn hại trứng và ba ba con.
Nhặt ba ba mới nở vào chậu nước sạch, chọn những con khoẻ mạnh, đã “ rụng rốn” để đưa vào bể ương.
3. Ương nuôi Ba ba giống:
Để đảm bảo ương từ ba ba mới nở thành ba ba giống có tỷ lệ sống cao, nên chia thành 3 giai đoạn ương. Dưới đây chủ yếu giới thiệu kỹ thuật ương ba ba hoa.
Giai đoạn 1: Ương từ lúc mới nở cỡ 4-6g thành cỡ 15-25g. Thời gian ương nhanh từ 25-30 ngày. Chăm sóc kém thời gian có thể kéo dài gấp đôi. Ba ba nở đầu vụ và giữa vụ, đúng mùa sinh trưởng ương lớn nhanh hơn ba ba nở cuối vụ. Ba ba mới nở do quy cỡ còn nhỏ, sức yếu, cơ quan tiêu hoá chưa hoàn chỉnh nên cần được chăm sóc tỉ mỉ trong các bể nhỏ có diện tích từ 1m2 đến 10m2. Mức nước trong bể ương từ 10-15cm mấy ngày đầu tăng dần đến 40cm vào cuối tháng. Không nên để nước quá sâu vì ba ba con luôn phải ngoi lên mặt nước thở, tốn năng lượng, ảnh hưởng đến sức khoẻ. Mặt bể có thể thả bèo tây non, sạch cho ba ba con nằm thở giáp mặt nước. Mật độ ương trung bình 50 con/m2, có thể ương dày 100-150 con/m2 nhưng sau 10-15 ngày phải san thưa, cho ăn đầy đủ và thay nước luôn. Cho ăn trùn chỉ (giun đỏ), giun đất, trùn quế, thả vào khay đưa xuống bể cho ba ba ăn vào sáng sớm hoặc chiều tối. Quản lý chăm sóc tốt, tỷ lệ sống đạt 90-100%.
Giai đoạn 2: Ương từ cỡ giống 15-25g thành cỡ giống 50-80g, thời gian ương nuôi cần 2-3 tháng với ba ba nở đầu vụ. Giai đoạn này tốt nhất vẫn nên ương trong bể xây cỡ 20-30m2 hoặc trong ao nhỏ cỡ 50-100m2. Mật độ ương trung bình 25-30 con/m2. Cho ăn no đủ bằng giun đất, cá mè luộc chín, gỡ ra thả xuống bể cho ba ba vào sáng, chiều. Quản lý chăm sóc tốt có thể đạt tỷ lệ sống 90-100%. Ương nuôi kém, sau 3 tháng chưa đạt quy cỡ nêu trên.
Giai đoạn 3: Ương cỡ giống nhỏ 50-80g thành cỡ giống lớn 100-150g, con to trên 200g. Thời gian ương cần 2-3 tháng, nếu thả qua mùa đông thì mất 5-6 tháng. Giai đoạn này nuôi trong ao đất lớn nhanh hơn trong bể xây. Diện tích bể ương trên dưới 50m2, diện tích ao ương 100-150m2. Mật độ ương trung bình 7-10 con/m2, cao nhất 15 con /m2. Cho ăn no đủ bằng cá mè luộc, gỡ cho ăn, cũng có thể cá băm nhỏ cho ăn vào sáng, chiều. Quản lý chăm sóc tốt, tỷ lệ sống có thể đạt 90-100%.
Cần định kỳ 1 tháng kiểm tra 1 lần để phân cỡ, tách con to con nhỏ nuôi riêng ao. Quá trình nuôi cần đảm bảo ao bể ương có nhiệt độ thích hợp từ 25-33oC.
Nhận xét
Đăng nhận xét